|
Hà Nội kỷ nguyên độc lập, xây dựng chính quyền mới (1945 - 1946)
Bối cảnh xã hội
Vừa mới ra đời, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã bị chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động liên kết với nhau, chống phá quyết liệt. Mười ngày sau khởi nghĩa tháng Tám, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch đã ồ ạt kéo vào Hà Nội và các tỉnh phía Bắc vĩ tuyến 16 với danh nghĩa tước khí giới quân Nhật. Chúng kéo theo bọn Việt gian lưu vong tập hợp trong hai tổ chức Việt Nam quốc dân đảng (Việt quốc) và Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt cách). Ý đồ của chúng là đánh đổ chính quyền nhân dân, lập chính quyền phản động làm tay sai cho chúng.
Ở miền Nam, quân đội Anh cũng lấy danh nghĩa tước khí giới Nhật, tiếp tay cho quân Pháp vào gây chiến ở Sài Gòn ngày 23-9-1945. Bọn phản động ở miền Nam ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp.
Trong khi đó, ta tiếp thu một nền kinh tế kiệt quệ. Nạn đói đầu năm 1945 vừa chấm dứt, nạn đói mới lại đe dọa. Nạn lụt lớn trong tháng 8 làm cho 9 tỉnh Bắc Bộ bị vỡ đê. Hàng hóa khan hiếm. Kho bạc trống rỗng. Ngân hàng Đông Dương còn gây thêm rối loạn về tiền tệ. Quân Tưởng vào miền Bắc còn tung tiền “quan kim”, “quốc tệ” mất giá lũng đoạn nền tài chính. Trên 90% dân ta không biết chữ...
Trước tình hình đó, đảng Cộng sản Đông Dương và người sáng lập là Bác Hồ đã tài tình đưa cách mạng từng bước đi lên, đối phó thành công với thiên tai và cả thù trong giặc ngoài. Mục đích của việc giành chính quyền cách mạng là đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Do đó, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phiên họp đầu tiên, ngày 3-9-1945, Chính phủ đã quyết định phát động ngay một chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói: bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý; thực hiện tự do tín ngưỡng và đoàn kết lương giáo; phát động phong trào chống nạn mù chữ. Để khắc phục khó khăn trước mắt về tài chính, Chính phủ động viên nhân dân xây dựng “Quỹ độc lập”, hưởng ứng “Tuần lễ vàng” và đến tháng 1-1946, phát hành tiền Việt Nam, xây dựng nền tiền tệ độc lập. Về ổn định chính trị, sáu ngày sau khi nước Việt Nam mới tuyên bố thành lập, ngày 8-9-1945, Chính phủ công bố lệnh tổ chức Tổng tuyển cử bầu quốc hội trong cả nước để lập ra Chính phủ chính thức, chế định Hiến pháp.
Lớp bình dân học vụ
Ngày 6-1-1946, lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, tất cả mọi công dân đến tuổi bầu cử, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, tín ngưỡng đều đi bỏ phiếu để tự mình lựa chọn những đại biểu ưu tú vào cơ quan Quốc hội, quyền lực cao nhất của Nhà nước.
Ngày 2-3-1946, Quốc hội khóa I họp kỳ đầu tiên tại Hà Nội đã trao quyền cho Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ chính thức. Tháng 11-1946, Quốc hội họp kỳ thứ hai nhất trí thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, xác nhận quyền làm chủ nhà nước và các quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Tiếp đó, ở các địa phương, nhân dân đã bầu Hội đồng nhân dân các cấp để lập ra ủy ban hành chính. Chính quyền cách mạng do nhân dân bầu ra trở thành công cụ sắc bén trong việc động viên và tổ chức lực lượng của toàn dân nhằm bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng. Đây là một thắng lợi chính trị hết sức to lớn, làm cho uy tín của nước Việt Nam mới được nâng cao trước toàn dân và trên trường quốc tế.
Tổ chức chính quyền cách mạng
Ngay sau khi khởi nghĩa thắng lợi, hệ thống chính quyền ở Hà Nội đã được thiết lập nhanh chóng đưa mọi mặt hoạt động của thành phố trở lại bình thường. Ở cấp thành phố là Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời (UBNDCMLT) Hà Nội; ở nhà máy, xí nghiệp là Ủy ban công nhân cách mạng; ở các công sở, khu phố là Ban đại diện Việt Minh; ở ngoại thành là UBNDCMLT ngoại thành và UBNDCMLT các làng, xã.
Đến cuối tháng 8-1945, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, UBNDCMLT được đổi thành Ủy ban nhân dân (UBND) và mời thêm một số nhân sĩ, trí thức, tư sản có tinh thần yêu nước tham gia, làm cho chính quyền cách mạng thực sự mang tính nhân dân rộng rãi. Ngày 30-8-1945, UBND thành phố Hà Nội chính thức ra mắt. Bác sĩ Trần Duy Hưng được cử làm Chủ tịch. Tháng 10-1945, UBND ở 47 khu phố nội thành và các làng xã ngoại thành được thành lập. Ủy ban công nhân cách mạng trong các nhà máy đổi thành Uy ban công nhân, sau lại đổi là Ủy ban xí nghiệp, tạm thời làm nhiệm vụ quản lý sản xuất. Chính quyền cách mạng bổ nhiệm giám đốc các công sở và một số nhà máy. Theo nguyện vọng của nhân dân, chính quyền đã xóa bỏ và sửa đổi một số thuế, tạm thời định ra những thể lệ bảo đảm tự do báo chí, tự do hội họp; quy định thanh toán nạn mù chữ, bỏ học phí, lệ phí các cấp; quy định chế độ lao động của công nhân và quan hệ chủ - thợ; kêu gọi điền chủ giảm tô cho nông dân...
Hệ thống công an nhân dân sớm hình thành, lấy đội danh dự trừ gian làm nòng cốt, có bổ sung thêm những phần tử trung kiên trong thanh niên và tự vệ. Một số đơn vị bộ đội chủ lực đầu tiên của Hà Nội đã được xây dựng từ những đội Thanh niên xung phong Hoàng Diệu, những đội Tự vệ cứu quốc, sau hợp nhất với Giải phóng quân ở chiến khu về, thuộc Bộ Tổng chỉ huy. Thành ủy tổ chức và trực tiếp chỉ đạo đội Tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu, một loại hình bộ đội địa phương. Thực hiện chủ trương vũ trang toàn dân, lực lượng Tự vệ thành cũng được tổ chức.
Để tăng cường chỗ dựa cho chính quyền cách mạng, đã phát triển các tổ chức cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Các Đại hội Thanh niên, Công nhân, Phụ nữ cứu quốc Hoàng Diệu (27-8-1945, 26-10-1945, 2-11-1945) đã củng cố thêm một bước các tổ chức quần chúng trung kiên. Ngoài các tổ chức cứu quốc đã được thành lập trong Cách mạng tháng Tám, tổ chức Công thương cứu quốc, Liên đoàn công giáo cứu quốc, Hội Phật giáo cứu quốc... lúc này tiếp tục ra đời, mở rộng thêm mặt trận đoàn kết toàn dân.
Trong một thời gian ngắn, hệ thống chính trị cách mạng trong thành phố bao gồm Chính quyền, Mặt trận, các tổ chức quần chúng, trong đó Đảng bộ là hạt nhân lãnh đạo, đã hình thành và dần dần được củng cố vững chắc, là một công cụ sắc bén để bảo vệ thành quả cách mạng.
Tuần lễ vàng và Quỹ độc lập
Một trong những khó khăn lớn của chính quyền cách mạng là nền tài chính kiệt quệ - kho bạc trống rỗng, thuế chưa thu được. Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp; quân Tưởng tung tiền quan kim, quốc tệ ra thị trường làm rối loạn thêm nền tài chính nước ta. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của chính quyền và khắc phục khó khăn trước mắt về tài chính, ngày 4-9-1945, Chính phủ ra sắc lệnh xây dựng Quỹ độc lập và tổ chức Tuần lễ vàng trong cả nước từ ngày 17 đến 24-9-1945, nhằm động viên mọi người dân yêu nước, tha thiết với nền độc lập của dân tộc, tự nguyện đóng góp cho Tổ quốc. Trong thư gửi đồng bào toàn quốc nhân dịp Tuần lễ vàng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn củng cố nền tự do, độc lập ấy, chúng ta cần sức hy sinh phấn đấu của đồng bào toàn quốc, nhưng chúng ta cũng cần sức quyên giúp của nhân dân, nhất là những nhà giàu có”.
Hưởng ứng sắc lệnh của Chính phủ và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ở Hà Nội đã diễn ra phong trào tự nguyện đóng góp tiền của, vàng, bạc... rất sôi nổi, từ những người lao động nghèo khổ đến những tư sản, điền chủ giàu có. Tuần lễ vàng khai mạc tại Hà Nội ngày 16-9-1945. Đến ngày bế mạc, nhân dân Thủ đô đã góp 2.201 lạng vàng, 920 tạ thóc nhiều tiền bạc, hiện vật khác, tổng cộng giá trị trên 7 triệu đồng Đông Dương lúc bấy giờ. Số tiền ủng hộ của nhân dân Hà Nội - cùng với số tiền của nhân dân cả nước - đã giúp Chính phủ khắc phục những khó khăn về tài chính trước mắt, mua sắm thêm vũ khí để xây dựng nền quốc phòng.
Tổng tuyển cử 6-1-1946
Để phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân và đặt cơ sở pháp lý cho Nhà nước dân chủ nhân dân, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tổ chức tổng tuyển cử trong cả nước để bầu Quốc hội và thành lập Chính phủ chính thức.
Sau một thời gian khẩn trương chuẩn bị, làm thất bại các hành động phá hoại của bọn đế quốc, phản động, ngày 6-1-1946, cả nước ta từ miền Bắc đến miền Nam, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, các tầng lớp nhân dân từ 18 tuổi trở lên đã nô nức đi bầu cử đại biểu Quốc hội. Tỉ lệ cử tri đi bỏ phiếu là 89%, nhiều nơi đạt 100%. Những đại biểu do Mặt trận Việt Minh giới thiệu được sự tín nhiệm tuyệt đối của nhân dân, cả nước đã bầu ra 333 đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ở Hà Nội, cuộc tổng tuyển cử đã thành công rực rỡ. Hưởng ứng lời kêu gọi: “Tất cả cử tri hãy đến thùng phiếu”, công dân Thủ đô đã biến ngày bầu cử thành ngày biểu dương lực lượng đoàn kết toàn dân, biểu dương ý chí làm chủ vận mệnh của dân tộc. Số phiếu bầu tập trung cho danh sách ứng cử viên của Mặt trận Việt Minh. Ra ứng cử ở Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trúng số phiếu cao nhất, 98,4%. Hà Nội có 6 đại biểu: Hồ Chí Minh, Hoàng Văn Đức, Vũ Đình Hoè, Trần Duy Hưng, Nguyễn Văn Luyện và Nguyễn Thị Thục Viên.
Tổng tuyển cử thắng lợi là một đòn đánh mạnh vào âm mưu lật đổ, xâm lược của đế quốc và tay sai. Nó góp phần nâng cao uy tín của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trên trường quốc tế; là dịp giáo dục nhân dân lòng yêu nước, ý thức làm chủ và nghĩa vụ công dân; là cuộc động viên chính trị rộng lớn và sâu sắc nhằm biểu dương sức mạnh và ý chí sắt đá của khối đoàn kết toàn dân. Nó tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao với kẻ thù và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.
Đổi mới về văn hóa
Cách mạng tháng 8-1945 cũng đã mở ra trang sử mới cho văn hóa. Ngay sau khi cách mạng thành công, ở Hà Nội, hội Văn hóa cứu quốc ra công khai, trở thành nòng cốt của phong trào văn nghệ mới. Tạp chí Tiên phong của Hội gồm những cây bút quen thuộc: Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Trần Huyền Trân v.v...
Tác phẩm của họ tập trung vào hai đề tài chính: Ca ngợi cách mạng đã giải phóng cho dân tộc, cho nghệ thuật và tố cáo tội ác của thực dân phong kiến (mà trước Cách mạng không thể in ra được). Các ngành nghệ thuật khác như âm nhạc, hội họa, sân khấu cũng chung một khuynh hướng đó. Văn Cao, Đỗ Nhuận viết nhạc hùng ca đấu tranh, Nguyễn Huy Tưởng làm kịch về khởi nghĩa Bắc Sơn, các họa sĩ tên tuổi sáng tác theo yêu cầu của cách mạng: kẻ khẩu hiệu, làm áp phích, vẽ về đề tài đấu tranh cách mạng...Cho nên, hơn một năm sau, khi kháng chiến bùng nổ đại bộ phận văn nghệ sĩ đều đi theo kháng chiến.
Có thể nói từ tháng 8-1945 đến tháng 12-1946, văn nghệ sĩ Hà Nội thực sự đổi đời, một đời sống văn nghệ lành mạnh đầy hào khí bắt đầu hình thành với khẩu hiệu dân tộc - khoa học - đại chúng.
Đấu tranh chống quân Tưởng và các đảng phái phản động
Theo hiệp ước Pôtxdam (Postdam) ký kết giữa 4 nước thắng trận (Liên Xô, Mỹ, Anh, Trung Quốc), quân Tưởng Giới Thạch vào miền Bắc nước ta để tước vũ khí quân Nhật. Nhưng đưa 20 vạn quân vào nước ta, quân Tưởng không phải chỉ thực hiện nhiệm vụ đó mà còn âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân, giúp bọn phản động Việt quốc, Việt cách lập chính quyền làm tay sai cho chúng.
Để tránh phải chiến đấu với nhiều kẻ thù trong cùng một lúc, Đảng chủ trương tạm thời hòa hoãn có nguyên tắc với quân Tưởng để tập trung lực lượng chống Pháp ở Nam Bộ. Nhân nhượng một số quyền lợi kinh tế, chính trị, nhưng kiên quyết giữ vững độc lập, giữ vững chủ quyền cách mạng, tránh va chạm về quân sự nhưng dùng lực lượng chính trị của quần chúng để buộc quân Tường phải tôn trọng chủ quyền của ta.
Thực hiện sách lược đó, một mặt bộ đội rút ra ngoại thành, một bộ phận tự vệ chiến đấu, công an, trinh sát đi vào hoạt động bí mật, hỗ trợ quần chúng đấu tranh, mặt khác hàng chục vạn quần chúng xuống đường tham gia những cuộc mít tinh, biểu tình nhân một dịp nào đó để biểu dương lực lượng toàn dân đoàn kết, quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc, quyết tâm ủng hộ và bảo vệ Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Như cuộc mít tinh của 30 vạn người hoan nghênh phái bộ Đồng minh ngày 26-8-1945, cuộc biểu tình khổng lồ kéo dài 5 giờ phản đối phái bộ Anh chiếm Ủy ban nhân dân Nam Bộ (còn gọi là Nam Bộ phủ) khi Lư Hán, tư lệnh quân đội Tưởng đến Hà Nội ngày 14-9-1945...
Với sách lược đó, ta đã hạn chế tới mức tối đa sự phá phách của quân Tưởng và tay sai. Khi quân Tưởng rút về nước thì bọn tay sai cũng tan rã và bị trừng trị thích đáng.
Ký kết hiệp định sơ bộ 6-3-1946
Sau khi chính quyền Tưởng Giới Thạch và thực dân Pháp ký Hiệp ước Hoa - Pháp, để tránh tình thế bất lợi và có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng đối phó với âm mưu của Pháp, Hội nghị BCHTƯ Đảng họp ngày 5-3-1946, đã nhất trí tán thành chủ trương hòa đế tiến, tạm thời hòa hoãn với thực dân Pháp.
Thực hiện chủ trương đó, chiều ngày 6-3-1946, tại nhà số 36 phố Lý Thái Tổ (Hà Nội) thay mặt Chính phủ ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với đại diện Chính phủ Pháp là Xanhtơni (Sainteny) bản Hiệp định sơ bộ. Đại diện các phái đoàn Anh, Mỹ, Tưởng cũng có mặt trong buổi ký kết. Hiệp định sơ bộ quy định Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một nước tự do, có chính phủ, có nghị viện, có quân đội, có tài chính riêng, ở trong khối Liên hiệp Pháp. Chính phủ Pháp cam đoan thừa nhận những quyết định của một cuộc trưng cầu ý dân về vấn đề thống nhất ba miền. Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thỏa thuận cho 1.500 quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam thay thế quân đội Tưởng và trong 5 năm (mỗi năm l/5) toàn bộ quân Pháp phải rút hết khỏi Việt Nam; hai bên đình chỉ ngay xung đột để đàm phán chính thức và quân đội hai bên ở nguyên vị trí đóng quân.
Đây là hiệp định quốc tế đầu tiên mà chính quyền cách mạng ký với nước ngoài. Ta đã buộc Chính phủ Pháp thừa nhận Việt Nam là một nước tự do, không còn là thuộc địa của Pháp, đồng thời đuổi nhanh quân Tưởng ra khỏi nước ta và quét sạch bọn phản động tay sai của chúng. Ta giành được thêm thời gian khôi phục và phát triển cơ sở cách mạng trong các vùng bị địch chiếm ở miền Nam, xây dựng và phát triển lực lượng chính trị, vũ trang ở miền Bắc, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Ngày 7-3-1946, trong cuộc mít tinh của hàng chục vạn đồng bào Hà Nội tại quảng trường Nhà hát lớn, Chủ tịch Hỗ Chí Minh đã phân tích rõ những lợi ích của việc ký kết Hiệp định sơ bộ và nhắc nhở đồng bào bình tĩnh, đoàn kết, tôn trọng kỷ luật, đề cao cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu. Đồng bào Thủ đô và đồng bào cả nước đã tuyệt đối tin tưởng chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ. Trong hoàn cảnh lúc ấy, điều đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Theo: Báo ảnh Việt Nam
|