Du thuyền Hồ Tây: Khám phá Hồ Tây 1/2 ngày
Hà Nội
Thời gian: 1/2 ngày
Giá tour: 450.000 VNĐ
Phương tiện: Xe du lịch đời mới
Khởi hành: Hàng ngày
Khách sạn: ![]()
- Tel: 024. 3833 2626
- Email: info@amitour.com.vn
- Hotlines: 0904 927 888
|
Khám phá Hồ Tây |
|
“ Hà Nội có trở nên xinh đẹp, tươi mát tự nhiên là nhờ có Hồ Tây. Hồ Tây của Hà Nội, địa điểm Du lịch nổi tiếng thu hút nhiều các đoàn khách nước ngoài đến tham quan cũng như du khách mọi miền tổ quốc đến thăm quan du lịch đặc biệt là Lễ Phủ Tây Hồ bằng du thuyền ....”
|
|
Chương trình: Thăm quan Hà Nội - Du Thuyền Hồ Tây .
08h00 (13h30) Xe đón Quý khách tại Công ty đi thăm Phủ Tây Hồ
08h30 (14h15) Xuống tàu thăm quan quan Hồ Tây ( Hướng dẫn viên sẽ giới thiệu về Hồ Tây trong quá trình thăm quan và lên làm lễ thắp hương tại Phủ Tây Hồ - Hà Nội ) “PHỦ TÂY HỒ Nằm tận cùng trên bán đảo nhô ra Hồ Tây ba bề sóng vỗ, Phủ Tây Hồ có phong cảnh hữu tình, được xây dựng trên đất Tây Hồ, xã Quảng An, huyện Từ Liêm nay thuộc quận Tây Hồ. Đây là quê hương của Thị Lộ, cô hàng chiếu sau là vợ Nguyễn Trãi và là nhân vật bi thảm của vụ án Lệ Chi Viên. Tây Hồ còn lưu truyền thuyết về cuộc tao ngộ văn chương của ông trạng Phùng Khắc Khoan và hai bạn là cử nhân họ Ngô, tú tài họ Lý với một cô gái đi thuyền trên Hồ Tây vào một đêm thu. Sau bài thơ liên ngâm cô gái bơi thuyền biến mât trong sương. Ba nhà thơ lên bờ thì gió đưa tới tờ giấy hồng ghi bài thơ 4 câu, trong đó có 2 câu dịch nghĩa là:
Người đời muốn biết tên ta nhỉ?
Họ mới hay vừa gặp chúa tiên Liễu Hạnh. Từ huyền thoại này, phủ Tây Hồ được xây vào thời Lê Anh Tông (1557-1573) để thờ Chúa Liễu được tôn xưng là “Mẫu nghi thiên hạ”. Tượng thờ có Tam tòa, tứ phủ và các chư vị. Lễ hội Phủ Tây Hồ mở vào tháng 3 hàng năm theo câu ca “Tháng Ba gỗ Mẹ”.
10h30 ( 17h15) Lên xe Ô tô đến nhà hàng ăn tiệc Buffet 11h00 ( 18h45) Xe đưa Quý khách về Công ty kết thúc chuyến tham Quan
|
|
|
BÁO GIÁ TRỌN GÓI: 450.000 VND/KHÁCH
Giá tour bao gồm:
-Xe đưa đón theo chương trình
Không bao gồm: -Đồ uống, chi tiêu cá nhân (điện thoại, giặt là…), thuế VAT 10%.
Chú ý: -Trẻ em dưới 5 tuổi miễn phí; từ 5 – 9 tuổi thu 70%; từ 10 tuổi trở lên tính như người lớn (* Giá trên có thể thay đổi vào thời điểm quý khách đi du lịch mà không cần báo trước.)
|
|
6 tên gọi của Hồ Tây trong lịch sử |
Theo cố GS. Trần Quốc Vượng thì tên Dâm Đàm có từ thời Lý - Trần, với nghĩa là Hồ mù sương. Đến năm 1573, để tránh tên húy của Vua Lê Thế Tông, người ta đổi là Tây Hồ...
Có lẽ không ai còn nhớ thuở khai thiên lập địa, hồ này có tên gọi là gì.
Cũng như Đại La – Thăng Long - Đông Đô - Bắc Thành – Hà Nội hay đối với Sông Cái – Nhị Thuỷ – Nhị Hà - Hồng Hà, trải qua đằng đẵng các thời kỳ lịch sử, Hồ Tây cũng có những tên gọi khác nhau. Điều này phụ thuộc vào ý nghĩa văn hóa từng thời đại, cũng như ý chí chủ quan của con người, nên mỗi tên gọi ấy đều gắn với từng sự tích, từng câu chuyện dân gian.
Đầm Xác Cáo
Đầm Xác Cáo có lẽ là tên gọi xưa nhất của Hồ Tây. Tên gọi này gắn với sự tích con Hồ ly tinh chín đuôi. Sự tích kể rằng nơi đây ngày xưa là rừng rậm hoang vu và nhiều gò núi. Ở đó, có một con Hồ ly tinh chuyên tác oai tác quái quấy nhiễu đời sống dân lành. Nhưng việc diệt trừ Hồ ly tinh được kể trong các câu chuyện dân gian cũng khác nhau. Một chuyện cho rằng Lạc Long Quân vì thương xót con dân nên đã dâng nước biển dìm chết con cáo và tạo ra hồ nước. Một câu chuyện khác kể về Huyền Thiên cũng vì thương xót và nghe lời cầu khẩn của dân chúng mà diệt trừ con cáo. Việc diệt trừ xảy ra ác liệt, khi con cáo bị diệt xong đã tạo ra một hồ nước. Từ đó, hồ có tên là Đầm Xác Cáo.
Nguyễn Huy Lượng trong Tụng Tây Hồ phú có câu:
Trước bạch hồ nào ở đó làm hang,
Long vương hổ nên vùng đại trạch
là để nói về sự tích này.
Hồ Kim Ngưu gắn với sự tích con trâu vàng. Song sự tích này được kể khác nhau. Một câu chuyện kể rằng con Kim ngưu khi nghe tiếng chuông của ông Khổng Lồ ngỡ là tiếng trâu mẹ gọi, bèn chạy từ Trung Quốc sang đến bên quả chuông lớn. Nó cứ loay hoay tìm quanh quả chuông, rút cuộc làm đất lở khiến cả quả chuông và mình sụt xuống tạo thành một vực sâu. Về sau mưa làm ngập lụt tạo thành hồ, cả quả chuông lẫn con trâu vàng đều không vớt được.
Câu chuyện khác thì kể rằng ngày xưa ở Núi Tiên Du có con Trâu vàng bị một Pháp sư yểm bùa, vùng dậy chạy. Chạy mãi, chạy mãi qua mỗi nơi, bằng sức mạnh của mình, nó đều tạo ra các dấu tích. Cuối cùng nó chạy tới đầu Sông Tô gặp một hồ nước, nó nhao xuống bơi lội thỏa thích rồi ở luôn trong lòng như đứa con lưu lạc vừa tìm được mẹ. Từ đó, Hồ Tây có tên là Hồ Kim Ngưu và dân gian còn truyền tụng câu:
Trâu vàng ẩn mãi giữa hồ,
Nước dù cạn vẫn mịt mù tăm hơi.
Lãng Bạc
Theo Tây Hồ chí thì sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa bi hùng của Hai Bà Trưng, Tướng quân Mã Viện với tư cách là kẻ thôn tính văn hóa đã gọi Hồ Tây là Lãng Bạc với ý nghĩa hồ đầy sóng vỗ. Tên gọi này thể hiện ý nghĩa rõ nhất vào những ngày giông bão, mặt hồ rộng, sóng nước nổi lên ầm ầm, tạo ra một cảnh hồ hùng tráng và nên thơ.
Làng mạc ven Hồ Tây xưa - Ảnh tư liệu
Dâm Đàm
Dâm Đàm với ý nghĩa là đầm tràn đầy nước. Có lẽ ý nghĩa ấy muốn nói tới sự rộng lớn, mênh mang sóng nước của Hồ Tây. Tên gọi này cũng không biết chính xác được gọi trong thời gian nào, nhưng theo cố GS. Trần Quốc Vượng thì Dâm Đàm có tên thật từ thời Lý - Trần (Thế kỷ X – XV) với huyền tích Lý Nhân Tông ngồi thuyền Mục Thận xem đánh cá, gặp sương mù, có thuyền tới gần, trên có hổ, Mục Thận quăng lưới bắt hổ, hóa ra đó là Thái sư Lê Văn Thịnh, và ông cho rằng Dâm Đàm nghĩa là Hồ mù sương.
Câu chuyện về vụ Thái sư Lê Văn Thịnh mưu hại Vua Lý Nhân Tông được các sách ghi chép khác nhau. Sách Việt điện u linh, Truyện Thái uý Trung duệ Vũ Lượng Công của Lý Tế Xuyên (Thế kỷ XIII) có đoạn viết: “Trong thời Lý Nhân Tông, quan Thái sư Lê Văn Thịnh nuôi được một tên gia nô người Đại Lý, có thuật lạ đọc thần chú biến được thành hổ báo. Lê Văn Thịnh cố dỗ dành tên gia nô dạy pháp thuật cho mình, sau khi học được rồi thì Văn Thịnh lập mưu giết chết tên gia nô và định dùng nó để hại Vua cướp ngôi”.
Vụ án Đâm Đàm này là một câu chuyện hoang đường, nó chỉ có thể là một màn nguỵ trang cho một sự tranh giành quyết liệt trong nội bộ triều đình nhà Lý vào cuối Thế kỷ XI và sự thất thế dẫn đến việc buộc phải ra đi của Lê Văn Thịnh. Hoặc giả, nó phản ánh về sự mâu thuẫn tôn giáo, tư tưởng xã hội của thời đại.
Lúc này, Nho giáo đang dần khẳng định vị trí của mình mà Lê Văn Thịnh là người khai khoa cho lịch sử khoa cử Nho giáo Việt Nam. Lê Văn Thịnh quê ở Bắc Ninh, ông đỗ đầu khoa Minh kinh bác học năm 1075, đời Lý Nhân Tông, ông từng làm chức Thị lang Bộ Binh.
Năm 1084, ông làm Chánh sứ đi sứ sang Tống, bằng tài ngoại giao, ông đòi lại được vùng đất Vật Dương, Vật ác (Cao Bằng) từ triều đình phương Bắc. Vì công lao của ông đối với triều chính, Lê Văn Thịnh được phong Thái sư năm 1096.
Sử sách không thấy ghi mâu thuẫn triều chính của Lê Văn Thịnh nên khi vụ án Dâm Đàm xảy ra, ông bị xích sắt đóng cũi và bị đày lên thượng nguồn Sông Thao nhưng không bị giết vì nhà Vua đã nghĩ đến công lao của ông.
Còn Mục Thận làm nghề chài lưới đánh bắt cá ở Dâm Đàm, nhờ có công cứu Vua Lý Nhân Tông nên được phong làm Đô uý và được ban đất quanh hồ làm thực ấp. Khi mất, ông được lập đền thờ ở Làng Võng Thị, truy phong tước Thái úy Duệ Lượng Công.
Thật là:
Đền Mục Lang hương lửa chẳng rời,
Tay lưới phép còn ghi công bắt hổ
(Nguyễn Huy Lượng – Tụng Tây Hồ phú)
Một vụ án đậm chất thần bí, hoang đường ma thuật phản ánh mâu thuẫn tôn giáo của một thời đại. Về sự việc này, Vua Tự Đức (1848 – 1883) có thơ vịnh:
Yên ba cửa dĩ ký bình tung,
Tự liệu quân vương giải cấu phùng.
Võng lý vô ngư hoàn hữu hổ
Tây Hồ hà loạn thiếu ngư long.
(Khói sóng đã lặng yên, việc cũ qua rồi, Giúp rập nhà Vua, mà gỡ bỏ mối gặp gỡ. Trong lưới không có cá, chỉ có hổ. Lo gì Hồ Tây mà thiếu cá!)
Tây Hồ
Sử sách ghi rằng: “Đến năm 1573, để tránh tên húy của Vua Lê Thế Tông là Duy Đàm, người ta đổi là Tây Hồ”.
Cái tên Tây Hồ có từ đó, ngoài lý do trên, có lẽ việc đặt tên này nhằm sánh với phương Bắc, vì ở Trung Quốc cũng có Tây Hồ nổi tiếng ở Hàng Châu. Việc đặt tên các địa danh, sông hồ của Việt Nam theo Trung Quốc là chuyện bình thường. Nhiều người giải thích rằng Tây Hồ nghĩa là hồ phía Tây Kinh thành, e không hợp lý. Cũng như Hà Đông, nếu xem bản đồ Hà Nội, thì địa danh trên không đúng theo phương vị Đông và Tây.
Tây Hồ là cách đọc Hán Việt của Hồ Tây, và Hồ Tây đã trở thành cái tên gần gũi, lâu dài, nên thơ nhất đối với người Hà Nội cũng như nhân dân cả nước.
Đoài Hồ
Chúa Trịnh Tạc (1657 – 1682) được phong tước Tây Vương, nên địa danh có chữ Tây bị ông ra lệnh đổi thành Đoài (quẻ Đoài thuộc phương Tây – ý nghĩa như nhau, âm và chữ khác nhau) như Sơn Tây gọi thành Xứ Đoài, bởi vậy nên Tây Hồ được gọi là Đoài Hồ.
Nhưng cái tên Đoài Hồ không được dùng lâu, đến hết đời Chúa Trịnh Tạc dân ta gọi lại như cũ là: Hồ Tây.
Trích Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long
AMI TOUR ®
Điện thoại: (04) 3987 6839 * Fax: (04) 3987 6840
* Hotlines: 091 987 6839; 090 492 7888
E.mail: info@amitour.com.vn - Website: www.amitour.com.vn
MORE THAN YOUR EXPECTATION!

.gif)
.gif)




.jpg)





